Tăng trưởng GDP của Việt Nam cho giai đoạn 2021-2030 được dự báo đạt trung bình 6,6% / năm và trung bình 5,7% cho giai đoạn 2031-2045. Tương ứng, Viện Năng lượng đã tính toán rằng điện thương phẩm sẽ đạt 491 tỷ kWh vào năm 2030 và 877 tỷ kWh vào năm 2045. Đến năm 2030, tổng công suất lắp đặt các nguồn điện của Việt Nam được dự đoán là 137,2 GW (trong đó nhiệt điện than điện: 27%, nhiệt điện khí: 21%, thủy điện: 18%, năng lượng tái tạo: 29%, năng lượng nhập khẩu khoảng 4%, thủy điện bơm và các thiết bị lưu trữ năng lượng khác khoảng 1%).

Dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện lực VIII (“QHĐ 8”) củng cố quan điểm hiện tại của Chính phủ Việt Nam về việc ưu tiên các nguồn năng lượng tái tạo để giảm thiểu các tác động tiêu cực do sản xuất điện gây ra đối với môi trường. Việc nhập khẩu nhiên liệu (than đá, khí tự nhiên hóa lỏng) được khuyến khích như một cách để đa dạng hóa các nguồn năng lượng chính của quốc gia, cùng lúc thiết lập các liên kết lưới điện truyền tải và phân phối với Trung Quốc, Lào và Campuchia nhằm tối đa hóa tiềm năng năng lượng của mỗi quốc gia. Nguồn điện nhập khẩu từ các nước láng giềng được coi là dự án ưu tiên vì điện nhập khẩu sẽ giảm tác động đến môi trường so với sản xuất trong nước. Dự thảo QHĐ 8 được định hướng tập trung vào phát triển lưới điện truyền tải từ 220KV trở lên để giải quyết vấn đề thừa công suất đang xảy ra trong những năm gần đây.

Tổng vốn đầu tư phát triển điện lực giai đoạn 2021-2030 khoảng 128,3 tỷ USD, trong đó: Nguồn điện 95,4 tỷ USD, lưới điện 32,9 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư bình quân là 74% / 26%.

Một trong những điểm khác biệt đáng chú ý nhất giữa Dự thảo QHĐ 8 và QHĐ 7 sửa đổi (Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia chính thức mới nhất) là mức độ nhu cầu điện giữa miền Bắc và miền Nam. Theo QHĐ 8, tỷ trọng điện thương phẩm của miền Bắc sẽ tăng dần từ 42,4% năm 2020 lên 45,8% năm 2045, trong khi miền Nam giảm tỷ trọng từ 47,4% năm 2020 xuống 43,6% vào năm 2045. Đến năm 2040, miền Bắc nhu cầu điện thương mại sẽ bắt đầu vượt quá nhu cầu của miền Nam.

Thông tin quan trọng nhà đầu tư nên biết:

Sử dụng than

Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí. Ảnh: EVN

Lượng than tồn kho tại các nhà máy điện ở mức thấp kỷ lục trong năm 2018 – nhiều nhà máy không đủ than hoạt động dẫn đến giảm công suất, thậm chí phải tạm dừng hoạt động của các tổ máy. Chẳng hạn, nhà máy Quảng Ninh có lúc phải dừng hoạt động 2/4 tổ máy do thiếu than. Khả năng sản xuất than antraxit trong nước để cung cấp cho vùng Đông Bắc Bộ chỉ đạt xấp xỉ 35 triệu tấn, tương đương 88% tổng nhu cầu nên phải nhập khẩu và phối trộn để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Trong những năm tới, nhu cầu sử dụng than Antraxit sẽ tiếp tục tăng khi một số nhà máy mới đi vào hoạt động như: Na Dương II, Hải Dương, Thái Bình 2, An Khánh-Bắc Giang.

Sử dụng khí đốt

Nhà máy điện Phú Mỹ. Ảnh: EVN

Trong giai đoạn 2010-2019, sản lượng khí khai thác bình quân hàng năm đạt 9-10 tỷ m3 / năm. Khí hiện đang được khai thác tại 26 mỏ khí và các mỏ dầu khí kết hợp như Lân Tây, Lân Đỏ, Bạch Hổ, Rạng Đông, … Còn khoảng 30 mỏ chưa có quy hoạch phát triển do hầu hết đều nhỏ lẻ hoặc nằm ở vùng nước sâu, xa bờ, có điều kiện địa lý, địa chất khó khăn.

Sử dụng năng lượng tái tạo

Dự án Ngân Hoàng Phát

Đến cuối năm 2020, tổng công suất điện mặt trời (bao gồm cả hệ thống năng lượng mặt trời nổi) đưa vào vận hành khoảng 17 GW, tập trung ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Lưới điện truyền tải không đủ số lượng, đặc biệt là ở các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, để đáp ứng ngày càng nhiều các dự án điện mặt trời với thời gian xây dựng nhanh hơn bao giờ hết do công nghệ phát triển. Do đó, hầu hết các dự án đã đi vào hoạt động tại các địa phương này đều đang phải giảm công suất phát hàng ngày để tránh quá tải cho lưới điện khu vực.

Tổng công suất điện gió đưa vào vận hành đến cuối năm 2020 là khoảng 600 MW, thấp hơn nhiều so với tổng công suất điện gió được phê duyệt đưa vào Quy hoạch điện 7 điều chỉnh là 12 GW. Đến năm 2021, các dự án còn lại dự kiến ​​đi vào hoạt động chủ yếu ở khu vực Tây Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Chính phủ Việt Nam đang kiểm tra, triển khai ở quy mô nhỏ và khuyến khích phát triển năng lượng từ khí đá dễ cháy, khí đá phiến, khí than, khí hydro hóa lỏng, sinh khối và chất thải.

Sử dụng thủy điện

Đập Thủy Điện Sơn La. Ảnh: VNExpress

Tổng công suất các nhà máy thủy điện vừa và lớn của Việt Nam được xây dựng đến năm 2019 là khoảng 17.930 MW. Tổng tiềm năng thủy điện nhỏ (dưới 30 MW) của cả nước khoảng 10.000 MW. Do tác động của thủy điện nhỏ đến môi trường và bảo tồn rừng, Bộ Công Thương đã tiến hành rà soát các địa điểm và bác bỏ khoảng 4000MW.

Khác

Các dự án nhiệt điện nằm trong Quy hoạch phát triển điện 7 đã được sửa đổi và có thời điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2021-2025 được coi là những dự án chắc chắn sẽ được đầu tư xây dựng và ưu tiên phát triển.

Các dự án nguồn điện có công suất từ ​​500 MW trở lên đóng vai trò là nhà máy cơ sở cũng được coi là dự án ưu tiên đầu tư.

Tại thời điểm viết bài, không có danh sách các dự án được đưa vào hoặc được đưa vào Quy hoạch phát triển điện VIII. Dưới đây là danh sách các dự án điện gió tiềm năng ngoài khơi và các nguồn nhiệt điện được xem xét đầu tư. Xin lưu ý rằng:

(i) Không phải tất cả các dự án được liệt kê trong tài liệu này sẽ được đưa vào PDP 8;

(ii) Một số dự án có trong danh sách đã được đưa vào Quy hoạch PDP 7 sửa đổi.

Để dự án của bạn được xem xét đưa vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, nhà đầu tư phải thực hiện nhiều loại thủ tục và xin một số giấy phép, bao gồm cả Nghiên cứu khả thi và các buổi trình diễn hoặc hội nghị với các cơ quan có liên quan. Ví dụ: các nhà phát triển năng lượng gió có thể phải xin giấy phép xây dựng tạm thời để lắp dựng các tháp đo gió hoặc chấp thuận cho phép giải phóng mặt bằng theo chiều dọc nếu địa điểm dự án của bạn gần ranh giới hàng không.

Khi một dự án được đưa vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đồng nghĩa với việc Chính phủ đã chính thức phê duyệt việc triển khai dự án đó. Đây là một trong những bước quan trọng nhất trong phát triển dự án năng lượng ở Việt Nam vì nếu không có sự chấp thuận của Chính phủ cho việc đưa dự án vào Quy hoạch phát triển đô thị thì không có cách nào để các nhà đầu tư có thể thực hiện dự án. Sau bước này, nhà đầu tư cần có Quyết định chủ trương đầu tư, sau đó là Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Nguồn: Vietnam Business Forum